Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng

Tóm tắt : Kiểm soát quyền lực nhà nước là chủ đề được đề cập nhiều lần trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày, phân tích thực trạng hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta và đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.  
Từ khóa : Kiểm soát quyền lực, cơ chế kiểm soát quyền lực, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.  
Abstract: Control of state power is a topic mentioned several times in the Document of the 13th National Congress of the Communist Party of Vietnam. In the scope of this article, the author provides introduction of and an analysis of the current status of state power control in our country and proposes a number of solutions to further improve the state power control mechanism from the point of view of 13th National Congress of the Communist Party of Vietnam.   
Keywords : Control of state power; power control mechanism; 13th National Congress of the Communist Party of Vietnam  
 
1. Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Thể chế hóa quan điểm của Đảng về kiểm soát quyền lực nhà nước được ghi nhận tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, nhiều văn bản luật được ban hành thời gian qua cụ thể hóa nguyên tắc hiến định về kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo đó, thể chế và các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước ngày càng được hoàn thiện. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhận định: “Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có nhiều chuyển biến tích cực”[1]. Hoạt động xây dựng pháp luật, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước của Quốc hội có nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu quả được nâng cao. “Hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp có nhiều đổi mới”[2].
Cùng với hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, kiểm soát quyền lực nhà nước còn được thực hiện bởi các thiết chế thanh tra trong bộ máy hành pháp, các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII khẳng định: “Hoạt động thanh tra hành chính và chuyên ngành được tăng cường và đạt kết quả tích cực”[3]; đồng thời, “tổ chức bộ máy của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động có tiến bộ…”[4]. Do vậy, thời gian qua, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũngvới quyết tâm chính trị rất cao, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đạt nhiều kết quả rất quan trọng, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ. Tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn và có chiều hướng giảm[5], “tạo hiệu ứng lan toả mạnh mẽ trong toàn xã hội, được nhân dân đồng tình, đánh giá cao, các tổ chức quốc tế ghi nhận”[6].
Đảng cầm quyền kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc định ra chủ trương, đường lối và lãnh đạo, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chủ trương, đường lối đó.Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII khẳng định “Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo từng bước hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ; xây dựng, bổ sung, sửa đổi và ban hành mới nhiều quy định, quy chế về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực”[7]. Do đó, “việc chống chạy chức, chạy quyền được coi trọng, đã có tác động cảnh báo, răn đe và ngăn chặn”[8].
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, truyền thông báo chí “tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vận động đông đảo nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội”[9]. Quyền làm chủ của nhân dân không ngừng được “chú trọng thực hiện dân chủ cả trực tiếp và đại diện, nhất là ở cơ sở, bảo đảm công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; người đứng đầu ở nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền đã tăng cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết những bức xúc và nguyện vọng chính đáng của nhân dân”[10].
Quá trình thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước luôn bảo đảm “sự phối hợp giữa kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả hơn, hạn chế sự chồng chéo trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong lãnh đạo, quản lý để đề xuất bổ sung, sửa đổi các văn bản có liên quan cho phù hợp”[11]. Sự phối hợp đó góp phần thực hiện có hiệu quả cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước còn bộc lộ một số hạn chế sau:
- “Việc thể chế hoá, cụ thể hoá chủ trương của Đảng về một số nội dung trong công tác cán bộ còn chậm, có nội dung chưa thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước và quy định của Đảng”[12];
- Việc điều tra, phát hiện, xử lý những vụ án tham nhũng “vẫn còn hạn chế, nhất là việc tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị còn yếu”[13];
- Vẫn còn tình trạng lợi ích cục bộ, sách nhiễu người dân, doanh nghiệp trong giải quyết thủ tục hành chính. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 nhận định “việc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình còn hạn chế”[14];
- Hoạt động kiểm soát quyền lực của Đảng được thể hiện thông qua quá trình kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng đối với đảng viên, cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, Ủy ban kiểm tra của các tổ chức Đảng chỉ hoạt động khi có khiếu nại, tố cáo, nên thiếu tính chủ động và không mang tính thường xuyên của kiểm soát quyền lực. Vì vậy, công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái.
- Một bộ phận đảng viên, cán bộ lãnh đạo quản lý có dấu hiệu vi phạm điều lệ đảng, vi phạm pháp luật nhưng chưa được xử lý kịp thời và công khai. Đảng ta nhận định “công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu trong tình hình mới, chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều ở các cấp. Việc kiểm tra, giám sát thực hiện một số nghị quyết của Đảng chưa thường xuyên. Công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm; việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu”[15].
- Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước chưa tạo ra sự gắn kết hiệu quả giữa các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, hoạt động kiểm tra của Đảng, hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước chưa có sự phối hợp chặt chẽ với hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội.
- Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng và chức năng quản lý nhà nước của Nhà nước chưa được phân định rõ. Hệ thống chính trị cồng kềnh, có hiện tượng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa cơ quan Đảng và Nhà nước, “phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao[16].
 - Hiến pháp quy định nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với bộ máy nhà nước thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và cá nhân, công dân. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục để các cơ quan nhà nước tiếp thu, xử lý những kiến nghị về giám sát của nhân dân chưa thật sự hiệu quả. Trong khi đó, pháp luật hiện hành chưa quy định về các biện pháp theo dõi, kiểm tra việc thực hiện kiến nghị, đề nghị giám sát của nhân dân. Một số kiến nghị, phản ánh trong hoạt động giám sát của nhân dân gửi đến cơ quan nhà nước chưa kịp thời xử lý, hoặc chưa được giải quyết thấu đáo. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhận định “một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân”[17]. Do đó, hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân thời gian qua chưa thực sự hiệu quả, “vai trò giám sát của nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ”[18].
- Mô hình hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa hoàn toàn độc lập với các cơ quan nhà nước. Các thiết chế này vẫn lệ thuộc vào chính đối tượng bị giám sát, phản biện về ngân sách, biên chế. Mặt trận Tổ quốc các cấp mới chỉ đóng vai trò là cơ quan phối hợp, tham gia thực hiện giám sát chứ chưa thể hiện được hết vai trò giám sát một cách chủ động so với các thiết chế khác. Trên thực tế, “việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có mặt chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đều”[19]. Chính vì vậy, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhận định: “cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện”[20].
Những nguyên nhân dẫn tới bất cập nêu trên là:
- Do chưa có sự thống nhất trong nhận thức về yêu cầu hoàn thiện và thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước;
- Những sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước chưa mang tính tổng thể. Do vậy, cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước thiếu tính đồng bộ;
- Bên cạnh đó, hoạt động nghiên cứu, tổng kết thực tiễn về hoạt động của các thiết chế thực hiện nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước chưa được quan tâm kịp thời để có những kiến nghị lập pháp phù hợp.
2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo quan điểm của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
-         Bảo đảm sự thống nhấttrong nhận thức của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân về mục đích, yêu cầu của việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
      Kiểm soát quyền lực nhà nước là yêu cầu khách quan,xu thế tất yếu. Mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước không phải cản trở hoạt động của Nhà nước, làm Nhà nước yếu đi mà ngược lại kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước.Mặt khác, kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng vi phạm pháp luật, lạm quyền; bảo đảm quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích. Do vậy, cần nâng cao nhận thức cho đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân nhằm tạo ra sự đồng thuận trong xã hội về sự cần thiết, khách quan phải hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong điều kiện mới.
-         Nâng cao năng lực thể chế hóa quan điểm của Đảng về kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động xây dựng pháp luật
      Hoạt động xây dựng pháp luật phải thể chế hóa phải kịp thời, đồng bộ; chương trình xây dựng pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng về kiểm soát quyền lực nhà nước và phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Quán triệt quan điểm của Đảng “đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật”[21]. Do vậy, cần sớm “hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội, về kiểm tra, giám sát và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch”[22]. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, luận chứng rõ căn cứ khoa học và pháp lý để hoàn thiện “cơ chế bảo vệ Hiến pháp”[23] như là một thiết chế chuyên trách kiểm soát quyền lực nhà nước.
-         Thực hiện đầy đủ nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước
      Thực hiện sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, mạch lạc giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong điều kiện chỉ có một đảng duy nhất cầm quyền như ở nước ta hiện nay, việc thực hiện sự phân công quyền lực cụ thể, rõ ràng sẽ tạo điều kiện cho bộ phận quyền lực này có thể kiểm soát được bộ phận quyền lực khác hiệu quả. Ngoài ra, thực hiện sự phân công quyền lực rõ ràng sẽ khắc phục được sự trùng lắp, dựa dẫm, ỷ lại hoặc không rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Do vậy, cần quán triệt chủ trương của Đảng: “xác định rõ hơn vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”[24].
-         Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và cơ quan bổ trợ tư pháp trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
      Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực của các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án kinh tế, tham nhũng, chức vụ. Quán triệt quan điểm của Đảng: “Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp… phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật”[25], không ngừng tăng cường sự phối hợp, nâng cao hiệu quả “công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí”[26].
-         Phát huy vai trò của Đảng cẩm quyền trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước
       Phát huy vai trò và năng lực kiểm tra, giám sát của Ủy ban kiểm tra các cấp đối với đảng viên, nhất là các đảng viên là cán bộ lãnh đạo quản lý trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những biểu hiện lệch lạc trong thực hiện quy định Điều lệ Đảng, các quy chế, quy định của Đảng. Các tổ chức đảng có thẩm quyền phải xử lý nghiêm minh, kịp thời và công khai đối với những đảng viên, nhất là đảng viên giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật. Quán triệt và thống nhất “thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền; xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu”[27].
- Hoàn thiện quy định pháp luật nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp và cơ quan truyền thông báo chí trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm “phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng trong quá trình hoạch định chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trong việc phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãnh phí”[28]. Quy định rõ quy trình, thủ tục và trách nhiệm của người đứng đầu tiếp nhận, giải quyết những kiến nghị về giám sát của nhân dân.
- Phát huy vai trò và bảo đảm quyền giám sát trực tiếp của nhân dân, góp phần thực hiện có hiệu quả cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Cần quán triệt sâu sắc quan điểm “dân làm chủ”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tiếp tục thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở; thực hiện tốt có hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[29]. Xây dựng kịp thời các đạo luật về quyền con người, quyền công dân. Bên cạnh đó, cần phải hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo đảm và tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan nhà nước.
               - Bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
               Một trong những điểm mới về nhận thức của Đảng ta tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đối với việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực là phải tăng cường và bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các thiết chế trong kiểm soát quyền lực. Do vậy, cần quán triệt và bảo đảm sự phối hợp đồng bộ trong hoạt động kiểm soát quyền lực của các cơ quan quyền lực nhà nước như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp;tăng cường hoạt động kiểm tra của Đảng với hoạt động kiểm toán độc lập, hoạt động của thanh tra Chính phủ và hoạt động của các cơ quan tố tụng trong các vụ án về kinh tế, tham nhũng, chức vụ; tạo sự phối kết hợp trong hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng và hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm “tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực, không hiệu quả”[30]; quán triệt và thực hiện phương châm “tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, gắn với kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền”[31]; bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội với cơ chế nhân dân trực tiếp giám sát quyền lực nhà nước./.

  
 


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.72.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.72.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.54.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.72- 73.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr76.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.54.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.191-192.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.75.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.70.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.71.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.199.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.91.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.92-93.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.74-75.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.201.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.93.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, tr.89.
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb .Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.89.
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.88.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.88-89.
[21] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.203.
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.194-195.
[23] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.176.
[24] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.174-175.
[25] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.177-178.
[26] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, Tập 1, tr.195; Tập 2, tr.252.
[27] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.187-188.
[28] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.288 -289.
[29] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.173.
[30] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.190.
[31] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.190.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 08 (432), tháng 4/2021.)